Page 154 - HSCC2025
P. 154

TS.BS. LÊ ĐỨC NHÂN



            CẬP NHẬT HỒI SỨC DỊCH



          Lịch sử của hồi sức dịch truyền tĩnh mạch có từ năm 1832 và liệu pháp truyền dịch bắt đầu phát triển từ 1885 khi
          Sidney Ringer phát triển dung dịch muối sinh lý. Dịch truyền ngày nay bao gồm rất nhiều loại, mỗi loại lại có các thành
          phần khác nhau, dùng chúng trong trường hợp nào. Việc xác định dịch truyền giống như thuốc giúp các bác sĩ có sự
          nhìn nhận rõ ràng, quan tâm đúng mức, sử dụng hiệu quả để tránh nguy cơ và các tác hại không mong muốn như quá
          tải/thiếu dịch truyền, tăng áp lực thẩm thấu, rối loạn điện giải, thiếu dịch truyền dinh dưỡng

          Các cập nhật về định nghĩa như dịch tích lũy, dư thừa dịch tĩnh mạch, dịch hồi sức, khả năng truyền dịch. Cá thể hoá
          trong điều trị đối với sử dụng dịch truyền trong hồi sức các bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết, viêm tuỵ cấp, chấn thương
          sọ não, tổn thương gan cấp, suy tim
          Mặc dù có rất nghiên cứu từ trước cho đến nay, các hướng dẫn dần ra đời sau các nghiên cứu về RCT trong hồi sức dịch.
          Hướng dẫn phần đầu tiên lựa chọn dịch truyền của Hiệp hội Y học chăm sóc tích cực Châu Âu (ESICM) về dịch hồi sức
          ở bệnh nhân nặng người lớn. Hướng dẫn này đưa ra khuyến cáo sử dụng dịch tinh thể thay vì albumin ở các bệnh nhân
          nặng chung và cả ở những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết hay ards và bệnh nhân quanh giai đoạn phẫu thuật




          MR. JIA JUN TAN



            ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG TỐI ƯU HÓA QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU TRỊ
            TẠI CÁC ĐƠN VỊ HỒI SỨC TÍCH CỰC




          Báo cáo trình bày về ứng dụng công nghệ trong phát triển đơn vị Hồi sức tích cực (HSTC) thông minh, nhằm tối ưu hóa
          quản lý và điều trị. Hiện nay, sự gia tăng các thiết bị giường bệnh như máy theo dõi, máy thở, ECMO, CRRT khiến bác
          sĩ phải tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn, gây khó khăn trong đánh giá tình trạng bệnh nhân. Bên cạnh đó, hệ thống
          thông tin lâm sàng chưa tích hợp dữ liệu gốc từ các thiết bị, dẫn đến hạn chế do thiếu dữ liệu trong hỗ trợ quyết định
          lâm sàng. Ngoài ra, mệt mỏi do báo động cũng là một vấn đề lớn, ảnh hưởng đến chất lượng điều trị
          Để xây dựng một khoa HSTC thông minh, cần đảm bảo bốn yếu tố chính. Thứ nhất, tích hợp dữ liệu, giúp đồng bộ
          thông tin bệnh nhân và đảm bảo luồng dữ liệu liền mạch giữa các khoa và bệnh viện. Thứ hai, hỗ trợ quyết định lâm
          sàng, cung cấp thông tin chính xác giúp bác sĩ đưa ra quyết định nhanh chóng. Thứ ba, đặt bệnh nhân làm trung tâm,
          với hệ thống theo dõi và giám sát toàn diện. Cuối cùng, quản lý báo động, nhằm giảm thiểu báo động nhiễu, tránh
          gây mệt mỏi cho nhân viên y tế
          Trong quản lý theo dõi, chẩn đoán và điều trị, việc kết nối các thiết bị giường bệnh như máy theo dõi, máy thở, bơm
          truyền dịch, và siêu âm giúp tối ưu hóa hiệu quả điều trị. Hệ thống theo dõi trung tâm đóng vai trò quan trọng trong
          lưu trữ và truy xuất dữ liệu bệnh nhân. Một ca lâm sàng điển hình tại Bệnh viện Lariboisière (Pháp) đã chứng minh
          rằng việc kết nối các thiết bị tại giường giúp bác sĩ dễ dàng tiếp cận dữ liệu từ nhiều thiết bị, nâng cao hiệu quả điều
          trị bệnh nhân
          Quản lý báo động là một yếu tố quan trọng trong Smart ICU. Việc đánh giá báo động dựa trên nhiều thông số và điều
          chỉnh giới hạn hợp lý giúp giảm thiểu cảnh báo gây nhiễu và tối ưu hóa phản hồi. Hệ thống phân cấp báo động theo
          ba cấp độ (điều dưỡng – trưởng nhóm – bác sĩ trưởng khoa) giúp đảm bảo phản ứng kịp thời và chính xác
          Mục tiêu của đơn vị Hồi sức tích cực thông minh (Smart ICU) không chỉ giúp quản lý bệnh nhân hiệu quả hơn mà còn
          giảm tải áp lực cho nhân viên y tế, tối ưu hóa quy trình điều trị và nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân







          HỒI SỨC TÍCH CỰC                                 154
   149   150   151   152   153   154   155   156   157   158   159