Page 181 - HSCC2025
P. 181

BSCKII. NGUYỄN NGỌC SANG



            THEO DÕI DÀI HẠN SAU VIÊM PHỔI CẤP DO NGỘ ĐỘC THỦY NGÂN
            SAU KHI ĐỐT CHU SA: BÁO CÁO CA HIẾM GẶP



          Tổng quan: Trong ba dạng của thủy ngân, hơi thủy ngân nguyên tố có nguy cơ cao nhất do khả năng gây viêm phổi
          cấp. Việc quản lý ngộ độc hơi thủy ngân cấp, đặc biệt trong tổn thương phổi cấp tính, vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi
          báo cáo một trường hợp ngộ độc hơi thủy ngân do đốt chu sa, được điều trị thành công bằng corticosteroid liều cao
          và liệu pháp thải độc, với thời gian theo dõi kéo dài 6 tháng
          Báo cáo ca bệnh: Bệnh nhân nữ 47 tuổi nhập khoa Cấp cứu vì khó thở, tức ngực và mệt mỏi sau khi đốt chu sa. Khi
          nhập viện, bệnh nhân có biểu hiện thở nhanh và suy hô hấp. Trong 5 ngày đầu, tình trạng suy hô hấp tiến triển nhanh,
          cần hỗ trợ thở oxy dòng cao qua cannula mũi (HFNC) và không cải thiện với kháng sinh phổ rộng đường tĩnh mạch (IV)
          cùng methylprednisolone IV liều 80mg/ngày. Nồng độ thủy ngân trong máu và nước tiểu được đo để xác nhận chẩn
          đoán. Sau khi xác nhận viêm phổi cấp do ngộ độc hơi thủy ngân, bệnh nhân được điều trị bằng methylprednisolone
          liều cao (500 mg IV/ngày) và liệu pháp thải độc, giúp cải thiện tình trạng bệnh

          Kết quả: Sáu tháng sau xuất viện, bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, được xác nhận qua hình ảnh phổi và các xét nghiệm
          chức năng hô hấp
          Bài học rút ra: Đốt thủy ngân nguyên tố có thể gây viêm phổi cấp, dẫn đến suy hô hấp cấp tính. Việc khai thác tiền sử
          bệnh kỹ lưỡng là yếu tố quan trọng trong chẩn đoán. Methylprednisolone liều cao nên được cân nhắc ở những bệnh
          nhân không đáp ứng với liều thấp. Bệnh nhân cần được theo dõi sau điều trị để phát hiện các biến chứng xơ hóa phổi
          tồn dư




          BSNT. ĐINH NGỌC TRÂM


            TIÊU ĐỀ CỦA BÁO CÁO: NGỘ ĐỘC HÓA CHẤT TRỪ SÂU CHLORFENAPYR




          Chlorfenapyr là một loại thuốc trừ sâu thuộc nhóm pyrrole, được sử dụng nhiều trong giai đoạn gần đây. Hoạt tính
          diệt  côn  trùng  của  chlorfenapyr  phụ  thuộc  vào  quá  trình  chuyển  hóa  sinh  học  của  nó  bởi  các  monooxygenase
          cytochrome P450 ở gan thành tralopyril, làm tách rời quá trình phosphoryl hóa oxy hóa ty thể và phá vỡ quá trình sản
          xuất adenosine triphosphate. Triệu chứng lâm sàng biểu hiện trên nhiều cơ quan, hay gặp là các triệu chứng về tiêu
          hóa (buôn nôn, nôn), thần kinh (hôn mê, co giật), tăng thân nhiệt ác tính có thể liên quan đến tình trạng lâm sàng xấu
          đi và tử vong. Những bất thường trong xét nghiệm thường gặp nhất bao gồm tăng hoạt động creatine kinase trong
          máu, hoạt động của aminotransferase ở gan và nồng độ lactate. Hình ảnh học cho thấy tổn thương chất trắng đối
          xứng kèm theo phù não. Theo Comstock et al, tỷ lệ tử vong là 76% và những người sống sót thường gặp phải di chứng
          thần kinh kéo dài. Đặc biệt, ngộ độc Chlorfenapyr có thời gian tiềm ẩn kéo dài, một số trường hợp ghi nhận thời gian
          có triệu chứng đầu tiên 14 ngày sau phơi nhiễm, diễn biến xấu dần trong nhiều giờ đến nhiều ngày và có thể dẫn đến
          các di chứng về thần kinh, tử vong

















          CHỐNG ĐỘC                                        181
   176   177   178   179   180   181   182   183   184   185   186